Định nghĩa, phân biệt bản dạng tính dục và hoạt động tình dục Xu_hướng_tính_dục

Tổng quan

Từ trước đến nay, xu hướng tính dục được định nghĩa bao gồm dị tính luyến ái, song tính luyến ái, đồng tính luyến ái, còn vô tính luyến ái được một số nhà nghiên cứu xem là loại thứ tư và được định nghĩa là không bao gồm những xu hướng tính dục đã biết. Một người vô tính luyến ái có rất ít hoặc không có sự hấp dẫn về tình dục đối với người khác.[4][5] Nó có thể được xem như không có xu hướng tính dục,[22] và cuộc tranh luận rằng nó có phải xu hướng tính dục hay không vẫn đang diễn ra.[4][5]

Hầu hết những định nghĩa về xu hướng tính dục bao gồm yếu tố tâm lý, ví dụ như đối tượng của sự ham muốn tình dục của một người, hoặc yếu tố hành vi, tập trung vào giới tính của một hoặc nhiều bạn tình của một cá nhân. Một số người chỉ thích đi theo định nghĩa hoặc bản dạng của một cá nhân nào đó. Theo hiểu biết của giới khoa học và chuyên môn, “sự hấp dẫn cốt lõi tạo nên nền tảng cho xu hướng tính dục khi lớn thường xuất hiện vào giữa thời thơ ấu cho đến đầu giai đoạn vị thành niên.”[1] Xu hướng tính dục khác với bản dạng tình dục ở chỗ xu hướng tính dục bao gồm mối quan hệ với người khác, trong khi bản dạng tình dục là một khái niệm về bản thân.

Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ cho rằng: “Xu hướng tính dục đề cập đến một loại hấp dẫn về tâm lý, tình cảm hoặc tình dục lâu dài với nam, nữ hoặc cả hai giới tính” và “những hành vi và sự hấp dẫn tương tự đã được ghi nhận ở nhiều nền văn hóa và quốc gia trên khắp thế giới, và những người mang những sự hấp dẫn này được gán cho những nhãn nhận dạng. Ở Hoa Kỳ, những nhãn quen thuộc nhất là lesbian (nữ có sự hấp dẫn đối với nữ), gay (nam có sự hấp dẫn đối với nam), và bisexual (nam hoặc nữ có sự hấp dẫn đối với cả hai giới tính). Tuy nhiên, một số người sẽ chọn dùng những nhãn khác hay không dùng cái nào cả.” Họ nói thêm rằng xu hướng tính dục “khác hoàn toàn so với những yếu tố khác của giới tính và giới, bao gồm giới tính sinh học (đặc điểm cơ thể, tâm lý và di truyền gắn liền với việc mang giới tính nam hoặc nữ), bản dạng giới (nhận thức của bản thân về việc là nam hay nữ), và vai trò giới xã hội (các chuẩn mực văn hóa xác định hành vi là nữ tính hay nam tính)”.[1]

Bản dạng tính dục và hoạt động tình dục có mối quan hệ mật thiết với xu hướng tính dục, nhưng chúng cũng khác nhau. Bản dạng tính dục là nhận thức của một cá nhân về chính bản thân người đó; hoạt động tình dục đề cập đến những hành động về tình dục mà cá nhân thực sự thực hiện; còn xu hướng tính dục đề cập đến “những mong ước, gắn bó và khao khát”.[23] Một cá nhân có thể thể hiện xu hướng tính dục của mình thông qua những hành vi hoặc không.[1] Những người có xu hướng tính dục không phải dị tính luyến ái nhưng lại khác với bản dạng tính dục của họ đôi khi bị xem là ‘chưa công khai’. Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng có thể là một sự phản ánh của một bối cảnh văn hóa nhất định và một sự chuyển giao cụ thể trong xã hội khi vấn đề hòa nhập các nhóm giới tính thiểu số đang dần được giải quyết. Trong những nghiên cứu về xu hướng tính dục, khi nói về mức độ trùng khớp giữa sự hấp dẫn tình dục, hoạt động tình dục và bản dạng tính dục, các nhà khoa học thường dùng các thuật ngữ “đồng điệu” hoặc “không đồng điệu.” Theo đó, khi một người nữ bị hấp dẫn bởi một người nữ khác, nhưng tự nhận bản thân là dị tính luyến ái và chỉ làm tình với nam, có thể được xem như đang có sự không đồng điệu giữa xu hướng tính dục (đồng tính luyến ái) với bản dạng tính dục và hoạt động tình dục (dị tính luyến ái).[24]

Sự hấp dẫn đối với tính nam, sự hấp dẫn đối với tính nữ và một số thuật ngữ khác

Androphilia và gynephilia (hoặc gynecophilia) là các thuật ngữ được dùng trong khoa học hành vi để diễn tả sự hấp dẫn về tình dục, được dùng như một thuật ngữ thay thế cho khái niệm đồng tính luyến ái và dị tính luyến ái. Chúng được dùng để xác định đối tượng mà một cá nhân bị thu hút mà không gán lên cá nhân đó giới tính hay bản dạng giới.[6][25] Người ta còn dùng các thuật ngữ như queer, toàn cảm, mối quan hệ đa ái, hấp dẫn đối với tính nam và tính nữ, hoặc các bản dạng cá nhân như byke (người nữ song tính nhưng có khuynh hướng nghiêng về nữ nhiều hơn và thỉnh thoảng cũng có với nam) hoặc biphilic.[6]

Sử dụng sự hấp dẫn đối với tính nam và sự hấp dẫn đối với tính nữ có thể tránh gây ra sự bối rối và xúc phạm đối với những người không thuộc về nền văn hóa phương Tây, cũng như để miêu tả những người liên giới tính và chuyển giới. Nhà tâm lý học Anil Agrawal giải thích rằng sự hấp dẫn đối với tính nam cũng như sự hấp dẫn đối với tính nữ “là cần thiết để vượt qua những trắc trở to lớn trong việc xác định xu hướng tính dục của những người chuyển giới nam và những người chuyển giới nữ. Ví dụ, thật khó để xác định một người chuyển giới nam và có sự hấp dẫn tình dục đối với nam sẽ là một người nữ dị tính luyến ái hay một người nam đồng tính luyến ái; hoặc một người chuyển giới nữ có sự hấp dẫn tình dục với nữ sẽ là một người nam dị tính luyến ái hay một người nữ đồng tính luyến ái. Bất cứ một nỗ lực nhằm phân loại những người này đều sẽ gây ra không chỉ sự bối rối mà còn là sự xúc phạm đối với họ. Trong những trường hợp đó, tập trung vào đối tượng hấp dẫn họ sẽ tốt hơn là giới tính của người chuyển giới."[26] Nhà tình dục học Milton Diamong đã viết: “Thuật ngữ dị tính luyến ái, đồng tính luyến ái và song tính luyến ái nên được dùng như tính từ, không phải danh từ, và dùng để miêu tả hành vi, không phải miêu tả con người. Cách sử dụng này đặc biệt có lợi khi bàn về người tình của những người chuyển giới và liên giới tính. Những thuật ngữ mới này cũng không mang những gánh nặng về xã hội từ những thuật ngữ trước đó.”[27] Một số nhà nghiên cứu ủng hộ việc sử dụng các thuật ngữ để tránh sự thiên vị vốn có đối với những khái niệm của phương Tây về tính dục con người. Khi nói về nhân khẩu của fa’afafine ở Samoa, nhà xã hội học Johanna Schmidt viết rằng trong những nền văn hóa có giới thứ ba được công nhận, thuật ngữ như “người chuyển giới đồng tính luyến ái” không phù hợp với các phạm trù văn hóa.[28]

Yêu người cùng giới, hay SGL, là một thuật ngữ sử dụng bởi một thành phần người Mỹ gốc Phi để gọi chính họ. Nó đồng nghĩa với đồng tính luyến ái nhưng không mang hàm ý kỳ thị.[29] Một vài nhà nghiên cứu, ví dụ như Bruce Bagemihl, chỉ trích những mác tên gọi như “dị tính luyến ái” và “đồng tính luyến ái” gây khó hiểu và xúc phạm danh dự. Bagemihl viết rằng “…, nguồn gốc của những xu hướng tính dục “dị tính luyến ái” và “đồng tính luyến ái” trong danh pháp này hoàn toàn là giới tính sinh học của cá nhân trước khi xác định lại (xem ví dụ Blanchard et al. 1987, Coleman và Bockting, 1988, Blanchard, 1989). Do đó, những nhãn này bỏ qua nhận thức của cá nhân về bản dạng giới, thứ được ưu tiên hơn là giới tính sinh học, chứ không phải ngược lại.” Bagemihl phản đối cách mà thuật ngữ này khiến mọi người nhầm lẫn rằng người chuyển giới thật ra là đồng tính nam đang cố thoát khỏi sự kỳ thị.[30]

Giới, chuyển giới, hợp giới và sự phù hợp

Những tác giả đi đầu trong chủ đề xu hướng tính dục thường nghĩ rằng về bản chất, xu hướng tính dục có mối quan hệ với giới tính sinh học của một người. Ví dụ, từng có quan điểm rằng một người mang đặc điểm sinh học của nữ bị hấp dẫn bởi những người mang đặc điểm sinh học nữ sẽ mang những đặc điểm của nam giới, và ngược lại.[31] Hầu hết các nhà giả thuyết lớn từ giữa thế kỉ 19 đến đầu thế kỷ 20 có chung quan điểm về xu hướng tính dục, ví dụ như Karl Heinrich Ulrichs, Richard von Krafft-Ebing, Magnus Hirschfeld, Havelock Ellis, Carl Jung, và Sigmund Freud, cũng như nhiều người đồng tính luyến ái mang giới biến thể. Tuy nhiên, cách hiểu về đồng tính luyến ái như một sự nghịch đảo về giới đã gây ra nhiều tranh cãi vào thời điểm đó, và trong nửa sau của thế kỷ 20, bản dạng giới dần được xem như là một hiện tượng khác biết so với xu hướng tính dục. Người chuyển giới hay hợp giới có thể bị hấp dẫn bởi nam giới, nữ giới, hoặc cả hai, dù cho mức phổ biến của những xu hướng tính dục khác nhau cũng sẽ khác nhau giữa hai nhóm người. Một người đồng tính luyến ái, dị tính luyến ái hoặc song tính luyến ái có thể nam tính, nữ tính hoặc trung tính, thêm vào đó, nhiều thành viên và người ủng hộ cộng đồng đồng tính nam và đồng tính nữ nhìn nhận “đồng tính luyến ái phù hợp giới” và “dị tính luyến ái không phù hợp giới” như những khuôn mẫu tiêu cực. Dù sao đi nữa, những nghiên cứu của J.Michael Bailey và Kenneth Zucker đã cho thấy phần lớn những người đồng tính nam và đồng tính nữ trong nghiên cứu đã có nhiều mức độ bất hòa hợp giới trong thời thơ ấu.[32] Người chuyển giới ngày nay nhận định bản thân với xu hướng tính dục trùng khớp với giới của họ, có nghĩa là một người chuyển giới nữ chỉ có hứng thú với nữ sẽ thường gắn mác cho bản thân là đồng tính nữ và một người chuyển giới nam chỉ hứng thú với nữ sẽ là một người nam dị tính.

Xu hướng tính dục trở nên phức tạp hơn khi xem xét những hiểu biết phi nhị nguyên về giới tính (không phải nam, nữ hay liên giới tính) và giới (nam, nữ, chuyển giới, giới thứ ba,…). Nhà xã hội học Paula Rodriguez Rust (2000) cho rằng định nghĩa xu hướng tính dục cần phải có cái nhìn đa chiều hơn:

Hầu hết các mẫu hình thay thế của tính dục … định nghĩa xu hướng tính dục dựa trên giới tính sinh học hoặc giới nhị nguyên… Hầu hết các nhà khoa học lý thuyết sẽ không loại trừ sự đề cập đến giới tính hoặc giới, mà thay vào đó sẽ ủng hộ việc kết hợp những khái niệm phi nhị nguyên phức tạp của giới tính hoặc giới, những mối quan hệ phức tạp giữa giới tính, giới và tính dục, và/hoặc các không gian phi giới tính vào mô hình tính dục

— Paula C.Rodriguez Rust[33]

Các mối quan hệ ngoài xu hướng tính dục

Những người đồng tính nam và đồng tính nữ có thể sẽ có quan hệ tình dục với người khác giới tính vì nhiều nguyên nhân, bao gồm mong muốn có được một gia đình truyền thống được công nhận và nỗi lo lắng về sự kỳ thị và sự bài trừ của tôn giáo.[34][35][36][37][38] Trong khi một số thành viên của cộng đồng LGBT giấu xu hướng tính dục của mình khỏi người vợ/chồng, những người khác phát triển bản dạng tính dục đồng tính của mình một cách tích cực và vẫn giữ được cuộc hôn nhân dị tính lành mạnh.[39][40][41] Công khai xu hướng tính dục với bản thân, người bạn đời, và con cái có thể mang tới những khó khăn mà những người đồng tính không kết hôn với người dị tính hoặc không có con không gặp phải.[42]

Khả năng thay đổi

Thông thường, xu hướng tính dục và bản dạng xu hướng tính dục không được phân biệt rõ, điều này có thể ảnh hưởng đến việc đánh giá chính xác xem xu hướng tính dục có thể thay đổi hay không; bản dạng xu hướng tính dục có thể thay đổi trong suốt cuộc đời mỗi người, và có thể trùng khớp hoặc khác biệt với giới tính sinh học, hành vi tình dục hoặc xu hướng tính dục thực sự của người đó.[43][44][24] Đối với hầu hết mọi người, xu hướng tính dục là ổn định và sẽ không thay đổi, nhưng một số nghiên cứu chỉ ra rằng một số người có thể sẽ trải nghiệm những thay đổi về xu hướng tính dục, và điều này dễ xảy ra cho nữ giới hơn nam giới.[45] Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ phân biệt giữa xu hướng tính dục (sự thu hút bẩm sinh) với bản dạng xu hướng tính dục (có thể thay đổi tại một thời điểm bất kỳ trong cuộc đời mỗi người).[46]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Xu_hướng_tính_dục http://wwwsshe.murdoch.edu.au/intersections/issue6... http://www.scielo.br/scielo.php?script=sci_abstrac... http://www.cnn.com/2004/TECH/science/10/14/asexual... http://www.findarticles.com/p/articles/mi_m0341/is... http://narth.com/menus/mission.html http://www.narth.com/docs/normalization.html http://www.pittsburghlive.com/x/pittsburghtrib/new... http://psychologytoday.com/articles/pto-19990301-0... http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S... http://www.scientistsolutions.com/t27233-new+state...